10 tấn vải thiều Lục Ngạn sẽ xuất sang Nhật Bản

10 tấn vải thiều Lục Ngạn sẽ xuất sang Nhật Bản

“10 tấn vải Lục Ngạn sẽ lên đường sang Nhật Bản vào tuần tới. Nếu được Nhật Bản chấp nhận, năm sau Bộ Khoa học sẽ giúp bà con nông dân tiêu thụ vải vào thị trường  nước này”, Bộ trưởng Nguyễn Quân nói.

Công nghệ chế biến và bảo quản nông, hải sản sau thu hoạch là vấn đề được nhiều người trăn trở và đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân trong chương trình “Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời” của VTV, tối 29/6.

Trước thông tin 5 quả vải ở Nhật Bản bán với giá mấy trăm nghìn đồng, trong khi một kg vải ở Việt Nam chỉ bán được 7.000-8.000 đồng, một người dân đặt câu hỏi: “Bộ trưởng xem có cách nào giữ được vải tươi cho chúng tôi để mang sang Nhật bán được không? Chúng tôi chăm bón cả một vụ vải mấy tháng trời vất vả mà cứ đến mùa lại lỗ, phải bán đổ bán tháo đi?”

Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết, cách đây ba năm, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hỗ trợ cho vùng vải thiều Lục Ngạn xây dựng chỉ dẫn địa lý. Nhờ đó giá bán đã cao hơn và bà con đã bớt phải bán đổ, bán tháo quả vải khi vào mùa chín rộ. Tuy nhiên, đấy vẫn chỉ là giải pháp ngắn hạn. Năm 2013, Bộ Khoa học đã hợp tác với Nhật Bản nhập công nghệ về tế bào sống, đảm bảo những sản phẩm sau thời gian rất dài vẫn giữ được phẩm chất tươi nguyên như khi vừa được thu hái và sản xuất.

“Đối với quả vải, Bộ đang đàm phán với Nhật Bản, bởi một loại quả của Việt Nam muốn vào được thị trường của một nước phát triển phải qua rất nhiều công đoạn, phải được họ chấp nhận”, Bộ trưởng Quân nói.

Việt Nam phải đưa sang Nhật Bản một vài sản phẩm mẫu để thí điểm, nếu Nhật Bản chấp nhận và thấy có khả năng tiêu thụ thì lúc đó mới có thể ký hợp đồng. Khi đó, người nông dân ở khu vực trồng vải của Việt Nam sẽ phải tổ chức sản xuất lại, gieo trồng, chăm bón cây vải theo một quy trình, trước mắt là VietGAP, và về lâu dài là tiêu chuẩn Global GAP quốc tế. Lúc này quả vải mới có chất lượng đồng nhất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

“Container đầu tiên với 10 tấn vải Lục Ngạn sẽ lên đường sang Nhật Bản vào tuần tới. Nếu được Nhật Bản chấp nhận, năm sau chúng tôi giúp bà con nông dân tiêu thụ vải vào thị trường Nhật Bản”, Bộ trưởng Quân nói. 

Cũng liên quan đến công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm, một người trồng vải ở Hải Dương thắc mắc: “Bộ trưởng có nói là đã đầu tư nhiều triệu đô la cho đề án bảo quản sau thu hoạch cho sản phẩm nông nghiệp, vậy đề án ấy đến đâu rồi?”.

Người đứng đầu ngành khoa học đính chính đề án trên không phải nhiều triệu đô la mà chưa tới một triệu đô la, bao gồm cả công đoạn nhận chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản, đào tạo cán bộ và tiến hành các thí nghiệm ban đầu để làm chủ công nghệ. Đến giai đoạn hai và ba, Việt Nam sẽ nhận chuyển giao công nghệ toàn bộ và hy vọng trong những năm tới sẽ có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư công nghệ này giúp cho bà con nông dân.

Về lo lắng đề án thu mua công nghệ chế biến sau thu hoạch bảo quản quả vải địa phương chồng chéo với đề án của Trung ương, Bộ trưởng Quân khẳng định không có chuyện này, bởi tập đoàn ABI của Nhật Bản là đầu mối duy nhất chuyển giao công nghệ để từ đó hợp tác chuyển giao cho doanh nghiệp. Nếu địa phương nào muốn có công nghệ này, phải hợp tác với Bộ Khoa học và Công nghệ.

Một ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương phản ánh, giá thành của loại cá này chỉ bằng 1/3-1/4 giá cá ngừ cùng loại của Nhật Bản và nguyên nhân là do cách bảo quản chế biến chưa chuẩn. “Bộ trưởng có thể cho người tìm hiểu và chuyển giao công nghệ mới cho chúng tôi để cá chúng tôi đánh bắt sẽ được giá cao hơn không?”, người này đặt câu hỏi.

Theo Bộ trưởng Quân, vấn đề trên xuất phát từ thực tế sản xuất ở Việt Nam còn ở quy mô nhỏ lẻ. Việt Nam chưa có những tàu dịch vụ để giúp cho bà con ngư dân có thể bảo quản sơ bộ cá ngừ ngay sau khi đánh bắt, trong khi thời gian từ đại dương về đất liền mất nhiều ngày. Nếu bảo quản bằng những phương pháp phổ biến thì khi về đến bờ phẩm chất của con cá đã bị giảm đi và giá bán chỉ bằng 1/3,1/4 so với cá ngừ cùng loại của Nhật Bản.

Cách đây hai năm Bộ Khoa học có tiếp nhận công nghệ do Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản chuyển giao. Đó là công nghệ bảo quản cá ngừ cũng như các loại thủy hải sản khác, có thể bảo quản lâu dài và vẫn giữ nguyên được chất lượng như vừa đánh bắt.

Bộ Khoa học đã thí nghiệm thành công với bảo quản cá ngừ, tôm sú và một vài nông sản khác. Nhưng để áp dụng thì còn phải tiếp tục nhận chuyển giao công nghệ từ phía Nhật Bản. Trước mắt, Bộ đã hợp tác với tỉnh Phú Yên xây dựng một nhà máy để bảo quản cá ngừ cho bà con ngư dân ở Phú Yên và Bình Định. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quân cho rằng, để bảo quản sơ bộ cá ngư từ khi đánh bắt đến khi về đến nhà máy chế biến thì cần sự hợp tác của doanh nghiệp và hỗ trợ đầu tư của Nhà nước cho tàu dịch vụ như vậy.

Hiện Bộ Khoa học cũng được phía Nhật Bản hỗ trợ một công nghệ bảo quản sơ bộ đối với cá ngừ, và đang nghiên cứu việc làm đá lạnh từ nước biển để có nhiệt độ làm lạnh sâu hơn giúp cho bảo quản cá ngừ ở bước sơ chế tốt hơn.

Hương Thu

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

review cong ty